Khi sử dụng
chữ “nhận thức”, hiền giả Minh Triết sử dụng
đó là cái thấy, cái trí thấy của mình, cái thấy là
cái thấy thuần khiết chứ không phải là tưởng tượng
thấy. Cái
thấy thuần khiết là cái thấy trước khi một quan niệm
xuất hiện trong đầu óc của anh, trước khi một đức
tin xuất hiện trong đầu óc anh. Chỉ cái thấy thuần
khiết kết hợp với sự kiện thuần khiết mới dẫn tới
nhận thức thuần khiết. Giác quan phát triển trong tình
huống đó thì nó mới đưa về não, não mới cho ra nhận
thức thuần khiết. Khi anh phát triển nhận thức thuần khiết này thì tình
người của anh nó cũng phát triển rất thuần khiết.
Bây
giờ bắt đầu chuyển qua phân tích thêm về nhận thức, suy diễn và
suy nghĩ. Phần đó Bảo Tánh nêu ra đi, phần mà Bảo Tánh
đã sưu tầm đó, nói tóm tắt thôi. Nói về khái niệm
“nhận thức”, người ta giải thích khái niệm “nhận
thức” như thế nào, người ta chỉ cái gì, nói về khái
niệm “suy diễn” người ta chỉ cái gì, nói về khái
niệm “suy nghĩ” người ta chỉ cái gì. Đa số là trong
triết học và tâm lý học phải không? Bây giờ mình bàn
ba khái niệm đó xem người ta chỉ cái gì để mình bình
dân hóa, đơn giản hóa những khái niệm đó sao cho nó dễ
hiểu.
Bảo
Tánh: Định nghĩa nêu “Nhận thức là nền tảng kinh
nghiệm hướng dẫn mọi hành động có ý thức...”
Thầy:
Họ định nghĩa như thế mình chỉ nghe như vậy thôi chứ
mình không đi sâu vô việc định nghĩa của họ. Bây giờ
mình nói một cách nôm na về chuyện của mình thôi, về
khả năng hoạt động của đầu óc và giác quan của
mình.
Mình
dùng như thế này cho dễ hiểu này. Bây giờ mình
có trí thấy. Trí thấy này tự có và có sẵn. Trí thấy
đó đi liền với các giác quan, trong đó có các giác quan
về tai, mắt, cảm xúc… Khi sử dụng giác quan thì trí
thấy biến thành nhận thức.
Ví
dụ như con mắt tôi thấy biển bữa nay sóng lớn, thấy
sóng đánh lên đánh xuống, thấy sóng dội lên dội
xuống, thì đầu óc mình nhận thức rằng: Biển thế này
là gió đang rất lớn, gió đang rất lớn nên mới tạo
ra những con sóng như vậy. Khi nhận thức như vậy mình
mới tính như thế này: Tắm thì chắc không được rồi,
còn tàu bè ra ngoài biển phải coi chừng không được
tốt. Như vậy là từ giác quan tiếp xúc, trong trí thấy
tạo ra nhận thức. Dĩ
nhiên quá trình lặp đi lặp lại thì ra kinh nghiệm. Hễ
thấy sóng lớn thì biết có gió, mà biết có gió thì tàu
đừng ra biển, hay gió lớn cỡ nào, sóng cao thấp cỡ
nào thì tàu có nên ra biển hay không nên ra biển. Quá
trình đó tích luỹ thành kinh nghiệm. Nhưng bây giờ mình
không đi sâu như vậy, mình chỉ cạn cạn thôi.
Trí
thấy, trí biết tự có và có sẵn, phối hợp với các
giác quan thì nhận thức sẽ phát triển. Nhận thức thì
thường nhận thức về hiện tượng và bản chất.
Hiện tượng sóng, hiện tượng gió lớn, hễ có gió lớn
thì có sóng to, rồi nó sẽ đập. Thì nhận thức phát
triển giống như vậy, tức là có sự tham gia của các
giác quan. Trên nền trí thấy, trí biết có sẵn, hoạt
động của giác quan tạo ra nhận thức.
Ví dụ bây giờ
mắt mình mù, nhãn quan bị mù nhưng nếu lỗ tai nghe
tiếng sóng đánh ầm ầm, và nghe âm thanh gió thổi nếu
mình ở trong phòng, còn nếu ở ngoài thì gió thổi vào
làn da thì mình biết sức gió nó mạnh cỡ nào. Thì nó
phát triển nhận thức. Từ trong trí thấy, trí biết đó
cộng với sự tiếp xúc của giác quan làm mình phát triển
nhận thức. Thì nhận thức cái gì? Nhận thức tình trạng
của sóng, tình trạng của gió, nhận thức về vấn đề
nguy hiểm, về vấn đề không an toàn… thì nó đẻ ra
một loạt các nhận thức. Vậy thì nhận
thức sẽ phát triển từ các giác quan tiếp xúc với thế
giới bên ngoài làm cho trí thấy, trí biết sẵn có phát
triển theo các nhận thức sâu hay cạn hay là rộng hay
hẹp. Đó gọi là nhận
thức. Mà
nhận thức đó hết sức trực tiếp, hết sức cụ thể
trên sự kiện, chứ nhận thức đó không phát triển trên
quan điểm.
Tuệ
Tri: Cái này có sự tham gia của bộ não.
Thầy:
Thì đó, đương nhiên. Mình nói tới giác quan là liên
quan tới não. Giác quan đương nhiên dẫn thông tin về
não. Não cho ra nhận thức. Tức là trung tâm não sẽ phân
tích các thông tin đó.
Tuệ
Tri: Tức các hình ảnh, âm thanh chuyển về não.
Thầy:
Nó chuyển về não hết, não xử lý. Đương nhiên khi nói
đến nhận thức là liên quan đến não. Nhiều khi não
không bình thường thì trí thấy vẫn hiện hữu. Nhưng đã
nói tới nhận thức là phải nói hoạt động của não
tốt, nó mới xử lý các thông tin do các giác quan đem
lại. Những thông tin đó gọi là những thông tin cụ thể,
mang tính sự kiện. Nhưng mà có
những thông tin mà do mình nghe, do ai vẽ ra, do ai tưởng
tượng, do ai đặt điều ra... thì nó cũng phát triển sự
nhận thức nhưng nhận thức đó không chuẩn. Nhận thức
đó có thể mang tính suy diễn.
Ví dụ nghe người đó kể như vậy, mình nghe như vậy,
như vậy... Tự nhiên trong người anh phát triển một thứ
nhận thức lệch lạc, nhận thức đó không chuẩn nữa
bở vì tất cả những thông tin đó không phải là sự
kiện mà thông tin đó có thể người ta bịa đặt. Với
suy diễn nó dẫn tới những nhận thức từ suy diễn.
Nhận
thức đi từ nguồn nào? Nhận thức nguyên thủy, nhận thức thuần khiết, hay là
nhận thức đã bị các thông tin chi phối vào, đã bị
các quan điểm chi phối vào?
Hiền giả Minh Triết phải
chú ý tới nhận thức thuần khiết hay nhận thức do các
giác quan phối hợp với các thông tin mang tính sự kiện,
chứ không phải từ sự nghe ai đó, từ sự thêu dệt, từ
sự tưởng tượng, từ suy diễn. Phải coi chừng, nhận
thức đó không phải nhận thức thuần khiết, nhận thức
tinh khiết. Khi mình nói tinh khiết có nghĩa là không có ý
tưởng của ai can thiệp vô. Thông tin người ta dựng lên
thì thiếu gì thông tin, đúng không? Nhiều lắm, thì nó
cũng tạo ra cho mình nhận thức. Nhận thức của mình
hướng về thông tin đó nhiều khi sai lầm, cho nên mình
chỉ tin cái nhận thức từ các thông tin mang tính sự
kiện mà thôi.
Ví dụ như mình tưởng tượng thế này,
ông đó ổng tu nhiều kiếp rồi, kỳ này tái sinh là kiếp
thứ mười sáu. Trong đầu mình mở ra nhận thức thuộc
loại nhận thức suy diễn: Chắc ông này có thần thông
lớn, có này kia nọ khác, thì bắt đầu nhận thức suy
diễn dẫn anh tới hành động sai trái.
Loại nhận thức
xuất phát từ sự suy diễn, từ những thông không chính
xác, từ những thông tin tưởng tượng, từ những thông
tin tự vẽ nên, từ những hiện tượng tưởng tượng,
từ những hiện tượng đó người ta vẽ nên, người ta
tạo thông tin để làm cho đầu óc anh hình thành một số
ý tưởng gì đó. Nhận thức phát triển trong mớ bòng
bong đó thì nhận thức đó không thể nào chính xác được,
nhận thức đó sẽ rất lệch lạc. Nhận thức nói nôm
na là như vậy. Các hiền giả Minh Triết phải lắng nghe
và phải nhận biết được nhận thức này là nhận thức
thuần khiết hay bị ảnh hưởng bởi những điều tưởng
tượng, suy diễn hay những quan niệm.
Tuệ
Tri: Thế thì đa phần là bị nhận những thông tin từ
khái niệm tưởng tượng.
Thầy:
Những luồng thông tin nó kinh khủng lắm.
Tuệ
Tri: Nó không chính xác, thành ra là thông thường đều bị
lệch.
Thầy:
Nó tạo ra thông tin để hướng nhận thức anh đi. Anh
nhận thức là có Thượng đế, có Chúa, có thiên đàng,
ngạ quỷ… Có đủ thứ. Tức là người ta tạo thông
tin để làm cho cái trí biết, trí thấy tự có của anh
phát triển một thứ nhận thức mà người ta định hướng
sẵn cho anh. Mà cái đầu của mình lại rất là thiên
biến vạn hóa. Người ta tạo cho anh hình ảnh trong đầu,
giống như lúc anh muốn quá thì hình ảnh đó nó sẽ
thành thật. Anh muốn gặp thần thánh, người ta tạo cho anh
hình ảnh thần thánh là như thế, tóc tai, hình dáng như thế, đi trên mây, trên gió... Người ta
vẽ ra một hình ảnh và hướng dẫn cho anh hình ảnh như
vậy. Khi anh tiếp nhận thông tin thì nó hình thành luôn
hình ảnh trong đầu. Và khi anh muốn quá thì cái hình đó
biến thành thật ngay trước mắt anh. Có thể anh thấy
người đó đứng giữa hư không, có khi anh tưởng tượng
người đó đang đứng vỗ vai mình, mình dòm mình thấy,
có khi anh dòm vô vách tường anh thấy. Khi anh muốn thấy quá thì nó sẽ biến
thành giống như thiệt. Đó là sự kỳ ảo của đầu óc.
Và nó cũng dẫn anh tới những nhận thức lệch lạc.
Cho
nên hàng ngày chúng ta
tiếp nhận không biết bao nhiêu là lượng thông tin vào
trong đầu óc chúng ta, nó làm cho nhận thức của chúng
ta biến chất toàn bộ mà chúng ta không hề biết tới. Vì vậy mới yêu lầm, nghe lầm, rồi mới bị người ta
lường gạt, rồi mới gọi là tiền mất tật mang. Chứ
làm sao mà tiền mất tật mang được, làm sao mà bị gạt
được? Là vì những luồng thông tin phức tạp nó định
hướng nhận thức của anh, nó làm cho nhận thức của
anh mở theo hướng đó.
Ví
dụ bây giờ thầy nói thầy là đại diện cho một đấng tối cao, đấng đó có hình thù ánh sáng như
thế này, có thể quý vị không tin nhưng mà chắc gì
không có người tin. Thế nào cũng có người tin. Chắc
chắn sẽ có một số người, người ta tin. Bởi vì mình
cố tạo cho người ta một thứ thông tin, mình vẽ ra một
thứ hình ảnh mà để định hướng nhận thức của
người ta mở về hướng đó. Cuối cùng rồi sao? “Mấy
ông không tin thôi chứ tôi thấy có thật!”. Bởi vì cái
đầu mình muốn là mình sẽ thấy. Bởi vì người ta đã
cho anh cái ảnh trong đầu rồi, mình muốn quá thì nó sẽ
thành thật, cái ảnh nó thành thật, tức là mình thấy
giống y như trước mặt mình, hay là mình thấy trên vách
tường, thấy chung quanh, mình thấy trên đầu giường,
hay mình thấy đâu đó, thấy trên cái bình hoa, thế nào
cũng thấy.
Hay bây giờ mình ngồi nè, mình muốn có ai đó
nhập vô mình coi thử xem sao. Mình tưởng tượng ông đó
có râu dài, âm thanh rền vang. Mình có hình ảnh rồi tự
nhiên có người nhập và âm thanh rền vang thiệt. Tôi
đã kể cho quý vị nghe người đại diện cho Ngọc Hoàng
Thượng Đế ở Hà Nội rồi chứ gì? Ông đó có cái
điện ngoài Hà Nội mà chiều cuối tuần là hàng trăm
người đến tập trung đó, công an cũng không cản được.
Sau cuối cùng nhiều công an tới nghe luôn. Bởi vì Ngọc
Hoàng Thượng Đế về nhập vô ổng. Mỗi lần Ngọc
Hoàng Thượng Đế nhập về là ổng nói giọng rền rền.
Bởi vì hình ảnh người ta vẽ trong đầu người ta, hình
ảnh thế này là Ngọc Hoàng Thượng Đế, tướng to mắt
to, râu dài, âm vang vang. Thế là bắt đầu thành hình ảnh
trong đầu và đến lúc nào đó người ta cảm thấy là
có thiệt. Bữa nay ông Ngọc Hoàng Thượng Đế về tự
nhiên giọng mình oang oang, hay lắm, cái đầu mình rất
hay, mà nó tạo giọng mình cũng y như vậy, oang oang, gầm
gầm. Tức là mình muốn sao nó ra y như vậy. Mà y như
thiệt. Người ta bảo bình thường ông này không có giọng
đó mà rõ ràng bữa nay ổng nói giọng đó. Từ xưa giờ
ông không có giọng đó, chắc chắn là phải có người
nhập vô ổng rồi. Mình đâu có biết là cái đầu của
mình có thể biến đủ thứ giọng. Mình muốn giọng eo
éo nó ra giọng eo éo, muốn giọng cong cong nó ra giọng
cong cong, muốn giọng gầm gầm nó ra giọng gầm gầm, nó
hay, đầu óc mình biến hóa vô lượng. Còn lưỡi và
miệng mình phát ra âm mà. Hễ mình muốn vậy thì tự
nhiên trong này nó phóng ra, vậy thôi. Thì quý vị muốn
nói thầm thì quý vị nói thầm thôi. Có gì đâu mà khó.
Quý vị muốn gầm thì gầm được. Có nhiều bà vợ nổi
khùng bả gầm như sư tử, mà bình thường bả nói nhỏ
nhẹ, bả hiền lắm, nói rất nhỏ nhẹ, nhưng bà nổi
điên, bả gầm bất tử, bả gầm lên một phát cũng
giống như sư tử vậy thôi. Mà khi người ta gầm lên một
cái rồi thì người khác sợ, rồi cuối cùng lại bảo
“không biết hồi nãy sợ sư tử chúa nó nhập vô người
em nó gầm chứ em đâu có vậy, em hiền queo mà, cái giọng
hồi nãy hình như sư tử chúa nó nhập vô, nó gầm to quá
trời to”.
Cho
nên cái đầu óc mình biến hóa ghê gớm. Âm lượng của
mình cũng biến hóa ghê gớm lắm. Thì cái nhận thức,
rất khó phân biệt thế nào là nhận thức chính xác,
nhận thức trung thực, nhận thức thuần khiết. Người
hiền giả chú ý là chú ý tới nhận thức thuần khiết,
chính xác từ các sự kiện. Cái tai mình nghe phải coi
chừng, mình nghe sự kiện, mình nghe âm thanh của sự
kiện, chứ mình nghe người ta nói là coi chừng trật.
Nghe âm thanh của sự kiện, nghe âm thanh của gió thổi,
nghe âm thanh của biển gầm thét, còn nếu mình nghe ai đó
mà rót vô là phải coi chừng.
Do đó cái thấy nhiều khi OK nhưng chưa chắc OK. Có lần ông
Nhật Nhãn ổng nói với thầy: “Thầy à, có cái này
chính mắt con thấy rõ ràng. Mà chưa có người nào qua
mắt được con. Con thấy rõ ông đó ổng đem cái tủ,
đem hai ổ khóa tới rồi ổng bỏ vô cục đá vô, con
thấy rõ ràng. Rồi ổng khóa lại, rồi ổng hẹn con bao
nhiêu lâu đó tới mở ra xem. Tới bữa đó ổng mở ra
cho con xem, ổ khóa còn niêm phong, mở ra thấy hai cục đất
bữa trước biến thành hai cục đá màu xanh đẹp lắm.
Mà cái này rõ ràng tay con rờ, mắt con thấy. Không thể
nào nó dối con được cả. Chắc chắn lắm. Ông này đúng
là có thần thông biến đất thành đá quý. Cái này thầy
cứ tin con đi, con là người không ai có thể nào dối lừa
được con. Con cả đời làm việc quốc tế mà, ai mà dối
con được. Mà mắt con thấy, con tới con sờ mà thầy.
Con đâu có tưởng tượng đâu.”
Thầy
chỉ nói thế này: “Ông Nhật Nhãn à, nếu nó làm được
chuyện đó thì nó không cho ông thấy làm gì, nó làm
thinh nó đi bán kiếm ăn chứ cho ông thấy làm gì. Cái gì
nó cho ông thấy dù ông thấy có thật đi nữa cũng là đồ
dỏm. Còn nó đã làm được làm sao mà ông thấy. Nó tới
bán cho công ty vàng bạc đá quý nó kiếm tiền nó ăn chứ
làm sao ông gặp nó được. Mà ông đã gặp nó thì nó là
cái thằng lang thang, dứt khoát nó là thằng lang thang, mà
thằng lang thang là thằng lừa đảo. Ông khỏi cần phải
dòm nó. Khỏi cần phải biết nó làm gì. Nếu ngày nào
ông thấy nó ở trong tiệm vàng bạc đá quý mà nó chuyên
môn bán đá cho người ta, nó ký hợp đồng với công ty
vàng bạc đá quý nó bán đá thì OK. Mà có khi nào ông
gặp được cái thằng đó không? Có khi nào nó cho ông
gặp không? Mà nó cố tình cho ông gặp thì nó là thằng
ăn mày rồi. Nó không phải thằng ăn mày nó có cho ông
gặp không, ông Nhật Nhãn? Chắc chắn là không. Cho nên
thôi đừng kể chuyện đó cho thầy nghe cho phiền phức
ra làm gì.” Thế ông mới bảo “Thầy nói con nghĩ có
lý”. Bữa sau ông mở pháp âm ra. Ông mở được một
tháng, ông bảo “Từ ngày con mở pháp âm sao cái thằng
đó nó nghe nó bỏ đi đâu mất à. Nó bỏ đi mất không
thấy nó tới nữa. Nó dọn nhà nó đi luôn rồi.”
Quý
vị thấy đó, cái thông tin người ta cho mình, mắt mình
thấy chưa chắc chính xác, chứ đừng nói tai nghe. Anh
thấy nhưng mà chưa chắc đã chính xác. Chính thầy thấy
vé máy bay lộn mấy lần rồi nè. 5 giờ sáng thấy thành
5 giờ chiều. Mà 5 giờ sáng và 5 giờ chiều cách nhau xa
lắm đó. Thành ra một là trễ chuyến bay, hai là tới quá
sớm. Có một lần ở Mễ Tây Cơ, không biết thế nào mà
cứ tưởng 5 giờ sáng nó bay. Vô sân bay mình đứng hoài
dòm không thấy ai hết, mình đưa cho người khác dòm họ
bảo 5 giờ chiều. Thầy mới “Ủa, hôm qua giờ mình dòm
thấy 5 giờ sáng hoài sao giờ trở thành 5 giờ chiều?”
Mà con mắt mình thấy đàng hoàng, mình kiểm tra đi kiểm
tra lại, vậy mà cái đầu cứ nhớ 5 giờ sáng hoài, đến
buổi sáng sớm đó không biết cái gì khiến nữa mà
trong đầu mình nghĩ phải đi sớm chứ không thôi bị trễ
máy bay. 3 giờ sáng dậy rồi. Mắt mình thấy trên tờ
giấy đàng hoàng. Cho nên đừng có ỷ lại, mắt mình
thấy cũng đừng ỷ lại.
Tuệ
Lực Nhãn: Giống như đi mát-xa Thái. Người ta để giá
là 359 baht mà trong đầu con cứ nghĩ là còn thêm một
baht nữa là bằng 400. Mắc cười lắm. Nghĩa là nó tính
giống như 60. Tức là thay vì 100 baht, ví dụ 59 thì cộng
thêm 41 baht nữa mới tới 100 mà trong đầu con cứ nghĩ
còn có 1 baht nữa là 400. Tức là theo con tính quy định
trong đầu tiền giờ giống như một giờ bằng 60 phút,
một phút bằng 60 giây.
Thầy:
Sau đó thầy mới thấy cái lý do làm sao mình lại thấy
kỳ vậy. Thì phát hiện ra là trong quá trình đó cái đầu
mình nó chớp ra một ý tưởng là mình muốn bay về Mỹ
sớm để buổi chiều hôm đó làm công việc khác. Chỉ
vì cái ý muốn đó thôi mà cứ dòm buổi chiều thành
buổi sáng. Mà mình muốn buổi sáng, cái chữ “muốn”
đó, cái ý tưởng “muốn” đó hiện ra có chút xíu,
tích tắc trong một giây nào đó thôi, giai đoạn nào đó
thôi mà cứ dòm ra buổi sáng không. Quý vị thấy không,
cái đầu mình kỳ cục lắm, hễ mình muốn thì sự thật
là buổi chiều thì thấy thành buổi sáng. Chứ đừng nói
chi là cái chuyện nó không rõ ràng.
Bảo
Tánh: Ngay cả nghe cũng vậy, muốn nghe cái gì là sẽ nghe
thấy cái ấy.
Thầy:
Ừ. Cho nên mấy người thầy bói hay đánh tâm lý. Cũng
không nhất thiết là thầy bói, mấy người tán tỉnh
nhau, lừa nhau cũng vậy, đầu tiên người ta tìm hiểu
anh muốn nghe cái gì. Người ta định hướng nhận thức
cho anh. Cho nên quý vị coi chừng, ai muốn có người nhập
thầy bày cho, dễ lắm. Y chang có người nhập luôn. Cần
thì lát nữa thầy dẫn ra bờ biển thầy bày cho rồi thử
coi. Đầu tiên thầy cho quý vị hình ảnh người sẽ
nhập, xong rồi thầy nói quý vị lộn lên lộn xuống,
té, la hét hai ba lần. Cứ la hét như vậy một lát hồi
là mình mất chủ động luôn, hình ảnh mà mình muốn bắt
đầu nó phát ra, y chang, không khác. Lúc đó lấy kim châm
không biết đau ngoại trừ thả mấy con rắn độc ra, sợ
quá mới tỉnh thôi. Chứ không nó vẫn có trạng thái đó.
Nhận thức của mình rất buồn cười.
Tóm
lại vấn đề là nhận thức của mình rất dễ bị sai
lệch. Mà sai lệch là do nguồn thông tin mình tiếp nhận.
Nên quý vị xem đài, xem báo riết coi chừng rối loạn
hết cái đầu. Giống như thế này: Hai đội bóng quốc
tế thi đấu với nhau, nó có dính dáng gì tới mình đâu
mà lát hồi mình cũng theo một phe. Mình thích phe nào mình
theo phe đó, mình cứ ngồi tung hê cho phe đó hoài thôi.
Hễ phe đó lỡ thua mình cũng khóc. (Cười). Phe đó thua
mình cũng khóc nữa. Nó rất buồn cười. Nhận thức của
mình rất dễ bị lệch nhé. Không phải đùa. Quý vị nhớ
nhé.
Thành
ra trở lại vấn đề nhận thức. Quý vị nhớ tóm tắt
thế này. Khi sử dụng
chữ “nhận thức”, hiền giả Minh Triết sử dụng
đó là cái thấy, cái trí thấy của mình, cái thấy là
cái thấy thuần khiết chứ không phải là tưởng tượng
thấy. Cái thấy cũng
vậy. Nó phải thuần khiết. Cái thấy đó nó không bị
quan niệm chi phối.
Thế
nào là một cái thấy bị quan niệm chi phối?
Chắc
là quý vị hình dung được. Ví dụ như anh thấy thế
này: “Nông dân phải là người làm chủ đất nước bởi
vì nông dân người ta bám ruộng, bám vườn, bám đất
đai. Người đó thực sự là người yêu nước, là người
có gốc có rễ, cho nên người đó mới thực sự làm chủ
đất nước.” Anh ảnh hưởng từ học thuyết nào đó
không biết, anh cứ thấy vậy. Thì cái thấy đó là cái
thấy xuất phát từ một quan niệm, từ một niềm tin nào
đó, chứ không phải là cái thấy thuần khiết.
Cái
thấy thuần khiết là cái thấy trước khi một quan niệm
xuất hiện trong đầu óc của anh, trước khi một đức
tin xuất hiện trong đầu óc anh. Chỉ cái thấy thuần
khiết kết hợp với sự kiện thuần khiết mới dẫn tới
nhận thức thuần khiết. Giác quan phát triển trong tình
huống đó thì nó mới đưa về não, não mới cho ra nhận
thức thuần khiết. Và
người học phương pháp này, các hiền giả Minh Triết là
phải phát triển nhận thức thuần khiết. Mình dùng chữ
“phát triển trí thấy” thì cũng OK, những nói đúng ra
là “phát triển nhận
thức thuần khiết”.
Phát triển nhận thức thuần khiết là yếu tố quyết
định lớn lao.
Và
khi anh phát triển nhận thức thuần khiết này thì tình
người của anh nó cũng phát triển rất thuần khiết. Rồi
từ tình người thuần khiết này, anh cho nó chảy vô chỗ
nào thì nó mới ra cái tình đó. Chảy vô đôi lứa thì
ra tình đôi lứa, chảy vô tổ quốc thì ra tình tổ quốc,
chảy vô thiên nhiên thì ra tình thiên nhiên, chảy vô mèo
chó thì ra tình với động vật, v.v… Chảy vô đâu thì
ra tình đó. Đại loại giống như vậy.
Nhưng
mà thế này, khi nói tới chỗ này tôi trở lại chuyện
hồi sáng mà chúng ta bế tắc. Tại
sao tình đôi lứa rất dễ bị đứt đoạn?
Mà chúng ta phải coi chừng để tìm cách gỡ cái này.
Trong khi cái tình với động vật, một người có thể
nuôi một con vật cho đến hết cả đời con vật đó
người ta không đổi, tình đó không đổi nhé, đúng vậy
không, thương nó là thương trọn đến khi nó chết thì
thôi. Không đổi. Nó không đổi mà mình cũng không đổi
luôn. Người chủ không đổi mà nó cũng không đổi.
Trong khi đó, con người phải hay hơn con vật chớ, thế
mà làm sao giữa chừng con người lại đổi? Ngộ thiệt.
Đúng không? Cho nên khi nó nói “chuyện gia đình tôi đang
có vấn đề”, là nó đang đổi đấy. Đang đổi. Mà
tại sao con vật mình nuôi nó mình không đổi cho đến
khi nó chết thì thôi. Mà nó chết mình vẫn nhớ vẫn
thương nó như thường. Hay là nó ngoắc đuôi với mình
suốt đời mình đâu có biết được phải không? Bây giờ
cái đó mình đặt nghi vấn để mình suy nghĩ làm sao tìm
ra giải pháp để tình đôi lứa không thay đổi. Khó nhỉ.
Đấy,
cái nhận thức từ trí thấy thuần khiết, trí thấy tự
có, nó phối hợp với não, phối hợp với các giác quan,
nó tiếp nhận thông tin để phát triển nhận thức thuần
khiết. Nó phát triển tình thương thuần khiết. Rồi từ
tình thương thuần khiết ra các thứ tình thương có điều
kiện khác. Còn tình thương thuần khiết là không có điều
kiện. Nhưng
các thứ tình thương khác là có điều kiện hết. Kể cả
tình thương tổ quốc. Tình thương có điều kiện là như
thế nhưng mà bản chất của tình thương là tự nguyện,
cho đi, dâng trào, tuôn chảy. Nói tới tình thương là một
thứ tình cảm anh chia sẻ giá trị gì đó theo tính chất
một chiều, trong cái tình cảm nồng nàn nhất, đó gọi
là tình thương. Mặc dù có điều kiện. Nhưng cái chữ
“điều kiện” đó là điều kiện để cái tình nguyên
thủy đó nó tuôn chảy.
Còn
tình yêu có điều kiện mà mình dùng theo nghĩa tiêu cực
là anh bắt người ta phải trả lại. Tôi chảy ra là anh
phải chảy vô. Nhiều khi tôi chẳng chảy ra mà tôi bắt
anh chảy vô. Đại loại vậy. Khi mình dùng chữ tình yêu
có điều kiện tức là nó mang tính đó. Còn khi thầy
dùng chữ “điều kiện” này tức là cái điều kiện
bên ngoài để cái tình có sẵn bên trong nó chảy tới.
Còn cái điều kiện trước đây mình hay dùng trong “tình
yêu có điều kiện” là “tôi chẳng cần chảy mà tôi
bắt anh chảy vô hoặc tôi chảy ra một chút tôi bắt
anh phải chảy vô”, đại loại giống vậy.
Như
vậy là mình tạm thông qua cái nhận thức nhé. Các hiền
giả phải chú ý, bây giờ càng ngày càng phải phát triển
nhận thức sâu về tính chất thuần khiết của nhận
thức, để mình không nhầm lẫn về nhận thức lệch
hướng. Đầu óc mình rất dễ bị lệch. Nhận thức mình
rất dễ bị lệch. Quý vị phải nhớ, đó là yếu điểm
trong đầu
óc con người. Phải tập riết rồi nó quen đi.
Hết phần đầu.
Trích nội dung làm việc giữa Thầy và BBT
Pattaya, 23/10/2012
Tất cả các nội dung nói chuyện của tác giả Duy Tuệ do Công ty CP Đầu tư Giáo dục Minh Triết độc quyền phát hành dưới hình thức sách, CD và DVD. Mọi nhu cầu đặt và mua các ấn phẩm của tác giả, xin vui lòng liên hệ công ty tại website www.minhtriet.vn